Saturday, November 28, 2009

TRƯỞNG Toán Nguyễn Thái Kiên hàng đứng người thứ Ba bên tay phải


Nhớ nước non xứ Lào .

Trên chiếc phi cơ loại L 20, do phi công Ðài loan lái. Ðại tá Hồ Tiêu, và mt Ðại tá Mỹ ngồi băng giửa; băng sau tôi, và Nguyễn thái Kiên; khoang sau là 2 túi dù, đựng hành trang của 2 đứa. Nguyễn thái Kiên mặt mày buồn so. Chắc có lẻ sau hơn 1 năm, từ Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đổi về Sở Liên Lạc, sống gần gia đình. Nên bửa nay xa nhà, nhớ vợ con chăng?

Sau khi tôi học xong khóa 58 B nhảy dù (chỉ có tôi từ Biệt Ðộng Quân về, chưa có bằng dù phải đi học thôi), chúng tôi 5 SQ gồm: Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên, Nguyễn văn Thụ, Phạm văn Hy và tôi, lên Trung tâm huấn luyện Long-Thành để nắm toán trưởng.

Cũng nên nói rỏ là: các toán viên đã được huấn luyện thuần thuộc rồi. Mổi toán có 3 quân nhân Mỹ, 9 Việt nam (hoằc Nùng). Các toán dùng tên các Tiểu bang Mỹ để đặt. Nhưng chúng tôi dùng tên toán 1, 2, 3, 4, 5 vân vân. Mấy tuần sau Thiếu uý Phan nhựt Văn lên nắm toán 6. Tôi nắm toán 5.

Về huấn luyện, chúng tôi chỉ cần học kỹ thêm về các loại mìn bẩy, và phá hoại; cùng xữ dụng các loại vũ khí của nước khối cộng-sản. Học điều không tiền tuyến, hướng dẩn phi cơ, chỉ điểm oanh kích. Câu dây trực thăng. Riêng về các bài học liên quan đến thám sát, thì cũng không có gì đặc biệt; như thủ lệnh, xóa bỏ dấu vết, vân vân; thì căn bản cũng giống như các bài học chiến thuật, dạy tại các quân trường.

Riêng phần tôi đã qua 2 khóa : Căn-bản Biệt đng quân, và Hành-quân Biệt-đng-Rừng Núi Sình Lầy rồi, thì khóa Thám sát này, coi như học ôn lại thôi .
Chúng tôi cũng được thực tập hành quân vùng sông Lá buông, mổi chuyến 7 ngày, để các thành phần trong toán ăn khớp với nhau. Về đi hình di chuyển hay vị trí, và xữ dụng vũ khí của mổi người trong toán, thì chúng tôi cùng đồng ý, không có ý kiến gì dị biệt giửa các cố vấn toán. Nhưng theo tổ chức cuả Mỹ, thì 3 cố vấn Mỹ: được gọi là one-zero ( Team-Leader ) one-one ; one-two.

Ð
i hình nếu hành quân 6 người thì toán trưởng đi thứ hai, sau tiền đạo; nếu hành quân 12 người thì toán trưởng đi thứ ba sau 2 tiền đạo. Ðiều này cũng không trở ngại, vì mấy chuyến thực tập, tôi vẩn ở vị trí như vừa nêu. Các toán trưởng khác cũng làm như thế, nhưng có điều khi liên lạc với phi cơ, thì one-zero của toán liên lạc. Ðiều này cũng dể hiểu thôi, vì không có người VN ngồi tiền-không-sát. Nghiểm nhiên người cầm ống liên hợp, điều khiển và chỉ huy luôn. Và lấn cấn bắt đầu từ đây. Phe ta muốn được quyền chỉ huy, phiá Mỹ thì muốn nắm quyền điều động.
Công bằng mà nói: chúng tôi lên Long thành, từ chổ ăn, chổ ngũ, cũng có người lo, quân trang quân dụng đều do phía Mỹ lo hết. Bây giờ họ không được quyền chỉ huy, thì họ đâu có chiụ. Thật sự thì các cố vấn của toán rất tốt, nhưng những cố vấn ở các phòng ban, thì thật khó ưa. Làm như những gì trại phát cho toán, là của riêng cuả nó cho vậy. Tôi nhớ lại lúc ở Biệt-động-quân, mấy tên cố vấn dể thương kể gì. Sợ sỉ quan chúng tôi ra phết. Ở đây nhìn chung mọi người hình như rất nể tụi Mỹ. Các toán trưởng chúng tôi đưa vấn đề này lên Trung-úy Trần-thụy-Ly, sỉ quan liên lạc, hướng dẩn, để trình bày lên thượng cấp. Không biết phải do vấn đề nêu trên không, mà vài ngày sau, tất cả chúng tôi được lệnh rút về. Và kết quả là bây giờ, tôi và Nguyễn thái Kiên đang ngôi trên phi cơ tháp tùng với Ðai-tá Hồ-Tiêu để đi qua Lào .

Ðược biết Sở-liên-lạc có nhận yểm trợ cho Phân khu Tchépone, nơi này có 1 Tiểu đoàn của Hoàng-gia Lào. Không biết tôi và thằng Kiên qua Lào làm trò gì đây? Lúc ở phi trường Tân sơn nhất, tôi có nghe Ðại tá Hồ Tiêu nói chuyện với phi hành đoàn, là phi cơ sẻ ghé Ðà nẳng, để cho vị Ðại tá Mỹ xuống, và đổ xăng luôn. Xong, ra Ðông hà đón 1 sỉ quan Lào, sau đó phi cơ sẻ đáp ở Khe-sanh, và vị sỉ quan Lào này sẻ hướng dẩn phái đoàn qua Tchépone.

Phi cơ theo bờ biển bay về hướng bắc, vì bay thấp nên chúng tôi nhìn thấy nước biển trong xanh, tàu thuyền qua lại rất rỏ. Tiếng phi cơ rì rì êm tai, nên tôi thấy Nguyễn thái Kiên đang ngáy kho kho. Hai ông Ðai-tá vẩn rì rầm nói chuyện. Lúc này tôi bổng nhớ lại đơn vị BÐQ xưa quá. Ðường đi Lào chắc còn xa, vậy quý vị cho tôi nhớ về đơn vị củ mt chút nhé!

Lúc tôi nhận được công điện của Bộ Tổng Tham Mưu về Sở Liên Lạc. Tôi nghỉ chắc có lẻ do ông NQT, tham mưu trưởng SÐ dù xin đây. Thôi thì phen này, sẻ giả từ vũ khí, về đi liên lạc thôi. Năm 1964 các đại đội biệt lập BÐQ tuy là đã sát nhập lại thành Tiểu đoàn rồi. Nhưng các đại đôi vẩn còn biệt phái cho Tiểu khu, Chi khu, ít khi nào gom lại hành quân chung cấp Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chưa đưa sỉ quan xuống bàn giao. Nên tôi vẩn phải chờ khoảng gần tháng sau khi nhận được lệnh thuyên chuyển. Tiểu đoàn tôi bị mt trận phục kích, thiệt hại rất nặng. Tiểu đoàn mở đường từ Bình long xuống Lai-khê. Ðại đôi tôi vừa ra khỏi quận Chơn thành hơn 1 cây số thì bị phục kích. Các đại đi đang đóng ở Tân Khai, Tàu ô, vi đi tiếp viện, liền bị chiến thuật ’công đồn đã viện’ của địch. Kết quả Tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Tiểu khu chết; tiểu đoàn chết mất 5 sỉ quan, đại đôi tôi, 1 SQ chết 1 SQ bị thương; phần binh sỉ chết và bị thương rất nhiều. Ðại đi tôi sau trận này, quân số khiển dụng chưa được 60 người. Không có sỉ quan xuống bàn giao thay thế. Suốt ngày nghe vợ con binh sỉ khóc than, chồng vừa chết, đại đi như còn chưa ổn định tinh than. Ở hoàn cảnh này, tôi bỏ đi sao đành. Ðại đi trưởng bị thương, Thiếu úy Tùng trung đi trưởng trung đi 1 chết. Ðại đi chỉ còn tôi là sỉ quan; nên kiêm luôn Ðại đi trưởng. Do đó tôi về trình diện SLL trể hơn 3 tháng. Mt phần tôi dùng dằng không muốn rời đại đi, vì đại đi này, là đơn vị đầu tiên, tôi phục vụ khi mới ra trường sỉ quan. Và trận bị phục kích vừa rồi, 1 đệ tử ruột của tôi bị chết: Binh nhất Chắt. Tôi nhớ đêm đầu tiên ở hậu cứ đại đi, vì lạ chổ, tôi trằn trọc đến khuya, cũng chưa ngũ được. Bổng nghe tiếng ca vọng cổ rất to ngoài vọng gác: Khoan khoan bớ Nguyệt thu Nga tên em 6 năm qua đã đơm bông nở nhụy trong quả tim này .. .. ..sau đó, là vô vọng cổ môt đoạn dài. Suốt đêm hể lúc nào tôi thức giấc đều nghe quen thuc có bấy nhiêu câu hát đó. Sáng hôm sau tôi hỏi Thượng sỉ Khiêm, thường vụ, xem ai hát, mà sau hát hoài suốt đêm cũng chỉ có 1 câu đó thôi. Ðược biết đó là binh I Chắc, sở dỉ hát suốt đêm, là vì các binh sỉ khác vì muốn gần vợ con, nên mướn hạ sỉ Chắt gác thế. Nó người Sông-ông-Ðốc, (Càmau), tướng tá vạm vở; nhưng hiền lành chẩt phác. Trong đại đi nó tải đạn cho súng trung liên. Tôi để ý, đạn nó giử luôn sạch sẻ, balô ngoài đạn trung liên ra, chỉ có võng; mt cái khăn rằng lớn, vừa dùng để làm mền, vừa, dùng để làm khăn tắm; còn lại toàn gạo xấy. Tuy nó không phải ‘tà lọt’, nhưng mổi lần đóng quân, tôi đều gọi nó đến gần, chia sớt đồ ăn cho nó. Mt kỹ niệm khác mà tôi suốt đời chẳng bao giờ quên. Buổi chiều hôm đó sau khi đi mở đường về hậu cứ, tôi đang ngồi đọc báo, thì thấy nó đi qua, đi lại, nhiều lần như muốn hỏi điều gì. Tôi bèn gọi hỏi xem nó cần gì. Chù chừ mãi mt hồi lâu nó mới mở miệng:

Thiếu-úy, Phải con gái tụi nó có 2 lổ,1 lổ tiểu, và mt lổ lửa. Nếu không biết...nhằm vào lổ lửa thì phỏng ...cu phải không ?
Tôi định cười thật to, vì sự khù khờ của nó, vi kềm lại được, bèn hỏi: Ai nói với Anh như thế .
Nó đáp Thượng sỉ Khiêm. Tôi bảo Thượng sỉ Khiêm gạt anh đó. Mà mổi lần đại đi về Bình-long, sao anh không đến Hàng-keo, đi chơi cho biết. Tôi nghỉ hôm nào đai-đi về Bình-long chắc tôi phải dẩn nó đi mt chuyến quá. Tôi bèn giải thích thật cặn kẻ cho nó biết.

Khoảng vài tháng sau, nó cho biết là nó sắp lấy vợ. Nó cưới con Lài, có gánh bán bánh canh; trước mt tiệm hũ tiếu duy nhứt ở quận Chơn thành. Con Lài con nhà lao động, mà nước da trắng bóc, thân hình nẩy nở, thật cân đối. Tôi thấy các HSQ Biệt-động-quân, HSQ Chi khu, có cả mt vài SQ chi khu, cũng thường tán tỉnh. Nhưng lù-khù có ông Cù độ mạng. Nó lại thương thằng Chắt mới lạ. Và từ đó mổi chiều, nếu đại đi không hành quân xa, thì nó ra nhà con Lài giúp đở, những gì nó làm được. Nhìn nó 2 tay xách 2 thùng nước chạy, chớ không phải đi, thì phải biết nó khoẻ như thế nào. Ngày cưới Ông gìa nó từ Càmau lên, xách theo 2 con vịt xiêm thật to. Ðàng trai duy nhứt chỉ có Ba nó, và đại đi 2 chúng tôi. Quần áo của tôi đưa, nó chỉ mặc vừa được cái áo, mà gài nút còn không muốn được. Ðành phải quần ‘treilli’, giày ‘bốt-đờ-sô’. Ðám cưới thật vui, nhậu hơn 10 lít rượu đế . Tôi thấy con Lài mặt mày hớn hở, chạy tới chạy lui, mời mọc mọi người, còn thằng Chắt chỉ biết đứng cười. Dì hai của con Lài cảm động, thỉnh thoảng đưa khăn chậm nước mắt .
Thế mà, 2 tuần sau, thắng Chắt bị tử trận. Con Lài muốn chôn thằng Chắt tại Chơn-thành, không đưa về Càmau. Sáu chiếc hòm được quàn trong hậu cứ. Các bà vợ tử sỉ khác, lăn lộn khóc lóc, tôi thấy con Lài ngồi bất động, mắt nhìn vào khoảng không hàng 15, 20 phút. Tôi nghỉ, cử chỉ này, chứng tỏ mt niềm đau thương rất sâu đậm. Tội nghiệp thằng Chắt, hay những tuổi trẻ VN ở nông thôn như nó. Chiến tranh đã cướp mất đi tuổi thơ. Chưa từng có người yêu, dẩn đi dạo phố. Chưa từng có mt thời làm học trò, biết ghi lưu bút ngày xanh ... . Còn, còn rất nhiều mất mát thiệt thòi khác nửa. Chả bù với chúng tôi, lớp thanh niên thành phố. Nứt mắt 16, 17 tuổi đã là thân chủ thường xuyên, của chị Dậu chị Tình, ở xóm mới Gò vấp từ khuya rồi.
Xin lổi, đã làm quý vị vài giây dao động, xin quay lại theo tôi qua thăm xứ Lào.
Phi cơ đáp phi trường Khe-sanh, sau khi đón vị sỉ quan Lào tai Ðông hà, đã thấy Trung uý Trần thụy Ly, qua trước đó mấy hôm, đang chờ sẳn rồi. Khe sanh cách Ðông hà không xa, mà thời tiết, và cảnh vật thật là cách biệt. Cây cối xanh tươi, khí hậu mát mẻ, tuy mới quá trưa, mà không gian bao trùm mt màn sương mỏng. Không khí thật dể chịu. Phi trường Khe sanh cũng là phi trường cuả trại LLÐB. Khe sanh nằm trong quận Hương hoá, nơi đây trồng rất nhiều càphê. Từ trại theo quốc l 9, qua quận Hương hoá, qua Lao bảo (nơi này có 1 trại tù Chính trị thời Pháp thuộc) qua Làng vây; rồi mới đến biên giới 2 nước .

Ðại tá Hồ Tiêu được vị Ðại tá Lào phân khu Tchépone niềm nở đón tiếp, và đưa vào phòng thuyết trình. Doanh trại đều là nhà tranh, vách đất, phòng thủ sơ sài. Vị sỉ quan ban 3 thuyết trình bằng tiếng Pháp. Tôi phải lôi vốn liếng Pháp văn, từ lúc học trường Lycée Franco-Chinoise ra để theo dỏi buổi thuyết trình. Về tình hình địch, thì cũng không có đơn-vị địch nào xuất hiện gần. Về tình hình bạn, thì chỉ có duy nhất Tiểu đoàn 33 này mà thôi .

Xong buổi thuyết trình. Ðại tá Hồ Tiêu quay về Khe sanh, và trở về Sàigòn cùng buổi chiều hôm đó. Buổi tối, không biết là có dịp lể nào cuả Lào không, nhưng họ nói là có buổi tiếp tân tiếp đón phái đoàn. Máy phát điện được chạy lên sáng khắp doanh trại. Tôi thấy có làm 1 con bò. Và cư dân Lào quanh vùng tập trung về tham dự rất đông. Nghe nói có người ở sát biên giới cũng về tham dự.
Có điều rất ngạc nhiên là 7, 8 chục phần trăm là các cô. Quần áo đều rất tươm tất, loại áo quần bó sát, mà ta thường trông thấy qua những hình ảnh nước Lào. Trang sức nữ trang bằng bạc. Các cô tuổi khoảng từ 17, 18 hoặc quá 25 là cùng. Sắc đẹp thì trên trung bình; chỉ có các bà vợ cuả các sỉ quan, và binh sỉ ,thì da dẻ trông trắng trẻo , có lẻ họ là người thành phố, vì ít lao động chăng. Các cô ở điạ phương, thì phần nhiều mập, và lùn. Chắc đã có chỉ thị, nên các cô vây quanh chúng tôi mời mọc, ăn uống. Có mt món như là bê thui. Chắm mt thứ nước gì sền sệt bỏ vào muổng, rồi khum người lại mời chúng tôi ăn, vừa ngậm miệng lại, chúng tôi không dám nhai, cũng không dám nuốt; bèn bước lui ra ngoài hè nhà để nhổ.
Món nước chấm này, là phần bên trong rut non cuả bò, pha với mt loại nước mắm của Lào, do đó để không bị các cô mời, tôi phải có mt món khác ngậm trong miệng, để các cô thấy, khỏi mời. Sau buổi tiệc là khiêu vũ. Ðiệu nhảy cũng giống như vũ điệu của Thái-lan và Cao-miên. Các cô cũng lôi chúng tôi ra. Có điều chỉ bước tới, đi ngang, 2 tay cứ xoay xoay, cũng dể. Không biết có phải phong tục Lào theo mẩu hệ hay không, mà các cô tự do vui chơi đến sáng.


Thời tiết lạnh lạnh, không khí thật dể chịu. Mặc dù hôm qua trải qua mt chặng đường xa, sáng nay dậy chúng tôi thấy thật khỏe, không thấy mệt. Trung-úy Ly cho biết, nhiệm vụ cuả chúng tôi là nằm ở mt tiền đồn, với binh sỉ hoàng gia Lào, để quan sát 1 đoạn đường xâm nhập cuả địch bằng quân xa mổi đêm (Thời gian này quân xa địch chưa dám chạy ban ngày). Phát hiện báo cáo, số lượng, và mức độ xâm nhập cuả địch mổi đêm. Tuy nhiên cách nay 4 hôm, đoạn đường này vừa bị phi cơ Mỹ oanh-kích dử di. Không còn nghe tiếng xe địch hằng đêm nửa. Chúng tôi chờ lúc nào địch hoạt động trở lại ,thì chúng tôi thi hành công tác. Toán chúng tôi gồm Trung-úy Ly, Kiên, tôi và 2 HSQ truyền tin. Nhưng mổi lần gửi công điện cần quay đầu bò (B phận phát điện) bên phía Lào, đều tăng phái 2 binh sỉ qua làm công tác này. Hai nhân viên truyền tin của ta ngồi chơi khoẻ ru. Mổi buổi sáng, bên B-chỉ-huy Tiểu-đoàn Lào đều mang qua cho bên Việt-nam, một rổ xôi. Xôi họ thổi khô, nhưng rất mềm, và dẻo. Nơi đây không có chợ búa gì cả. Ngày nào ngán xôi, thì mấy HSQ truyền tin rang cơm nguội ,ăn với cá mòi Sumaco. Buồn qúa, tôi rủ thằng Kiên ra ngoài làng chơi. Nó không chiụ đi, cứ ngồi chửi là nó bị ‘Ðì ’,nên đày nó qua đây. Vì lúc cả nhóm đòi phải được quyền chỉ huy, nếu không được; tôi và nó, xin được trở về đơn vị cũ. Tôi không cho là điều nó nghỉ là đúng. Tánh thằng Kiên là vậy; nó nóng nảy nhưng trực tính, việc gì nó cho là không đúng, là nó chưởi toáng cả lên. Bất kể là quan lớn, hay bé. Phần tôi có việc gì nó không đồng ý là nó chữi ‘’Số ngày mày đi lính, không bằng ngày tao bị lậu ‘’.

Mà sự thật: Năm 1954 nó có tham dự trận Ðiện biên phủ. Những người cùng thời với nó bây giờ, đều mang lon ‘quan ba ‘ ‘quan bốn ‘, còn nó vẫn làm ‘ quan một ‘dài dài. Với nó, mà đem chuyện ‘’thi hành trước,khiếu nại sau ‘’thì còn khuya, nó mới làm. Vì tính khí nó như thế, nên sau này nó bị đổi ra bộ binh, làm việc ở Phòng 2 , Quân đoàn I . Thỉnh thoảng có đi công tác về Ðànẳng, tôi có ghé khu phòng vãng lai Sỉ Quan độc thân thăm nó. Bây giờ nó bất mản còn dữ nữa. Cho là đuổi nó ra khỏi ‘nhảy dù’ là làm nhục nó. Thời gian sau, nghe nói nó tình nguyện vào Sở Bắc. Kinh-Kha lúc sang Tần, là thanh niên trai tráng. Còn thằng Kiên thì một vợ 4 , 5 con rồi. Mà nghỉ cũng lạ, thanh niên trai trẻ tình nguyện thiếu gì. Sao lại chọn nó làm chiến sỉ vô danh. Biết rằng, ra đi sẻ không có ngày trở lại. Bị tù gần 20 năm. Vượt biên qua Mỹ, đang lo thủ tục bão lãnh vợ con. Chưa qua được Mỹ đoàn tụ với nó, thì vợ nó đã mất ở Việt-nam. Các bạn nào chưa quen biết nó, mà thấy nó hơi hơi chạm điện, thì hảy thông cảm. Chúng ta mà va vào trường hợp như nó, sợ bây giờ chắc đã theo ông bà, ông vải từ lâu. Rồi thì Ông Trời cũng có mắt. Sau này nó cũng có ở với một bà. Bà sau này, chìu chung, và lo cho nó hết mình. Ðền bù lại những ngày tù đày của nó. Con gái riêng của bà, cũng kính trọng thằng Kiên như cha ruột. Chắc bà sau này, kiếp trước còn mắc nợ nó bây giờ phải trả đây. Giờ thì tính nóng của nó cũng giảm được 5 , 7 phần rồi.

Kiên ơi ! Nếu mày có đọc tới đây, thì tụi mình bây giờ, còn gì nữa đâu :‘’Chiều xuống êm đềm’’nghe Kiên .
Thằng Kiên không đi thì tôi đi môt mình. Làng Husane chỉ cách trại khoảng 1 cây số ,,nằm cạnh sông Tchépone, dưới bóng rợp mát của của những tàng dừa. Ðường làng thật sạch sẻ, phần nhiều là nhà sàn, khác với người Miên và người Thượng, họ không nuôi trâu bò, và gia súc dưới sàn. Dân làng thật cởi mở, hiếu khách, vui vẽ, mời tôi leo thang, lên nhà uống nước. Phần đông việc đồng áng do thanh niên, con gái đều ở nhà; làm việc nhà, hay dệt vải. Khung dệt được đặt dưới sàn nhà. Các cô quỳ, và dùng tay để phóng con thoi qua lại. Phần nhiều mọi nhà đều tự dệt vải để dùng. Vải dệt có những hình hoa văn rất đẹp. Ngồi nhìn các cô dệt suốt buổi, chỉ biết cười, và làm điệu bộ ra dấu thôi, có biết tiếng Lào đâu mà nói. Buổi chiều tôi theo mấy HSQ truyền tin đi tắm sông. Ðoạn sông Tchépone chảy ngang qua làng không sâu, và bờ sông lài lài, nên rất dể dàng lên xuống. Các cô cũng không e then, khi tắm chung với người khác phái. Có điều theo phong tục, họ phải đứng trên dòng nước chảy. Khi các cô muốn xuống nước, thì họ đi từ từ, bên trong cạn, ra sâu, rồi ngồi hụp xuống thật nhanh, cùng động tác, nâng khăn lên, và ném khăn vào bờ. Có nhanh mấy đi nửa, thì tụi tôi cũng nhìn thấy đũ hết rồi. Có thể đến gần, miển là vẩn ở dưới dòng, nước sông không trong lắm, nhưng những gì mình muốn thấy, thì vẫn thấy rỏ rang. Họ đùa giởn thật vô tư. Khi muốn lên bờ, thì một cô quay người ngược về chúng tôi, chạy nhanh lên bờ, choàng khăn xong, từ đó ném khăn xuống cho các bạn. Mấy thuở mà nhìn được một lần 5, 7 sơn nữ Phà-ca cùng tắm sông một lúc, phải không các bạn .

Chưa có công tác, vẩn ngồi chờ. Tôi và thằng Kiên qua Khe-sanh chơi. Quốc l 9 đoạn này còn rất tốt, chưa bị chiến tranh tàn phá. Rừng cây cổ thụ cao, to, 2 bên đường, khiến con đường mát lạnh. Dân khai thác lâm sản, thấy rừng cây cổ thụ 2, 3 người dang tay ôm không hết này, thì mê kể gì. Nếu đường sá thông thương, thì giờ này làm gì còn. Cũng trên đoạn đường này lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy chim trỉ. Lúc nhỏ xem hát bi, thấy đào kép có giắt lông trỉ trên mảo, giờ đây mới thấy tận mắt. Nó thường đi từng cặp. Thấy xe đến gần ,nó chỉ bay tới một đoạn ngắn, rồi đáp xuống cây, đợi xe chúng tôi đến gần mới bay, suốt một đoạn đường dài như vậy. Nếu chúng tôi dừng xe, đứng nhìn, thì con trống xù lông điệu bộ rất đẹp. Thỉnh thoảng cũng thấy mt loại chim như con công, nhưng không to và đẹp bằng .
Quận Hương-hóa chỉ có 1 con đường đc đạo. Cũng có mt vài tiệm tạp hóa, kiêm luôn bán càphê. Hàng hóa khá đắt, vì phải thồ từ Ðông hà lên. Vì là nơi sản xuất nhiều càphê, nên tôi có hỏi về càphê cứt chồn. Ông chủ quán cho biết là: để đi nhặt những hạt càphê do chồn ăn rồi bài tiết ra thì biết bao lâu mới được 1 ký. Riêng ông thì, vì có trồng càphê, những cây gần nhà, ông cứ để cho thật chín ,rụng xuống đất .Chờ thời gian phần thịt bên ngoài hạt càphê vữa đi , nhặt những hạt này về rửa sạch phơi khô. Vì có cùng mt đgià, đ chín, giống nhau, nên hương vị khác hơn những loại khác. Thỉnh thoảng qua Khe-sanh chúng tôi cũng mua được thịt rừng. Buổi cơm chiều đó chúng tôi được bồi dưởng thịt tươi .

Hơn 2 tuần không có việc gì làm, bắt đầu thấy buồn; thì có công điện, 2 đứa chúng tôi phải về trình diện SLL ngay. Thằng Kiên nó mừng kể gì. Chiều ngày hôm sau, là chúng tôi có mặt ở Phòng 3 SLL rồi. Ðược biết là chúng tôi trở lên lại Long-thành, các anh Bích , Thụ và Hy đã lên trước rồi.

Hai tuần vừa qua, xem như vừa được đi du lịch. Cám ơn dân làng Husane, cám ơn Tchépone, cám ơn những sơn nữ Phà-ca, đã cho tôi 2 tuần lể khó quên.
Chúng tôi lại trở về toán củ. Bây giờ, sau khi đã được bàn cải ở cấp cao, giửa 2 bên Mỹ-Việt. Tiếng Counterpart được thay thế tiếng Advisor. Nghiã là không có ai chỉ huy ai. Hai bên quyền hạng như nhau. Chúng tôi bắt đầu nhận công tác hành quân. Bắt đầu những chuyến đi, mà ‘ mười lần đi ,có đôi ba lần không trở lại ‘.
Năm 1969 tôi có dịp hành quân trở lại vùng này .Những hố bom B 52 chi chít. Ðường quốc l 9 đã bị cày nát nhiều đọan. Làng mạc tiêu điều. Thật kinh khủng. Không biết những Sơn nữ Phà Ca xưa, nay còn hay mất. Trôi lạc phương trời nào.
Lê Minh.


Hello Nguyễn-thái Kiên.
Biết Mày bị bệnh nặng mấy tháng nay. Nhưng tin Mày ra đi, cũng làm Tao bàng hoàng không ít. Trứoc sau gì cũng phải 1 lần ra đi thôi! Sao Mày lại giành đi sớm quá vậy. Không chấp hành ‘’hệ thống quân-giai gì cả.‘’ Còn 5 , 6 Ông ‘’Cù-Lũ’’còn khả năng, ăn 10 , 15 Mùa Noel nửa mới chịu đi mà Mày lại qua mặt dọt đi trước. Chắc không khỏi lảnh 15 củ.
6 thằng Toán-trưởng đầu tiên, Thằng Văn, thằng Bích, rồi bây giờ đến phiên Mày giành đi trước. Còn thằng Thụ, thằng Hy muốn đi lúc nào thì đi; phần Tao, Tao tình nguyện đi cuối cùng. OK .
Tao có viết 1 bài, có nói về Mày. Cháu Khuê đã đánh máy xong cả rồi, dự trù sẻ đăng vào đặc-san ngày Ðại-hi 8 cuối tháng 5 năm 2010. Bây giờ Mày ra đi sớm qúa .Tờ báo chưa in, nên Tao vi viết vài dòng và gữi bài viết cho Mày đọc trước.
Mày được tụi tao đặt cho ‘’Nick-name’’ là Kiên khùng. Nhưng cái khùng của Mày thật dể thương, không làm ai giận cả. Ðôi khi cơn khùng của Mày mang chút gì Anh-Hùng trong đó. Tao không biết Mày sẻ đi đến đâu, ngoài cái thế-giới ta-bà này. Nhưng Tao mong, nơi nào Mày sắp đến đó : Mày sẻ gặp lại Bà-Xã Mày. Người Ðàn-Bà mà mt đời đã hết lòng lo cho Mày.
Bạn Mày .
Lê-Minh .


Kiên đã ra đi.
Mấy năm trước anh Kiên thường gọi tôi có khi hàng tuần. Mỗi lần có khi nói với nhau cả vài tiếng. Tuy thế vài năm gần đây không thấy anh ấy gọi nữa, tôi nghĩ là anh ấy giận gì đó, không ngờ anh ấy đau.
Nay thì Kiên không còn nữa.
Thương cho anh Kiên và cũng thương cho Chị Kiên, người phụ nữ hiền thục ở Ngã Ba Ông Tạ. Chị thắt lưng buộc bụng nuôi con chờ chồng từ năm 1968 khi anh tình nguyện nhảy ra Bắc lúc ba bốn đứa con còn thơ dại. Lúc anh sắp đi, tôi đã nhiều lần cản, bảo với anh: ”Có ai bắt mày phải đi đâu mà mày đày đọa thân mày và vợ con mày”. Anh trả lời: “Tao phải đi để cho người ta biết.” Tôi hiểu “người ta” đây là ai.
Thế rồi sau bao nhiêu năm đọa đày trong lao tù VC, anh được tha về trước tôi khoảng một năm. Gặp lại nhau ở Ông Tạ năm 1983, mừng mừng tủi tủi, tôi đến thăm Chị Kiên vẫn ở ngôi nhà cũ lúc anh ra đi. Lúc ấy anh Kiên miệng luôn chửi VC không hề sợ sệt. Chị Kiên một lần nói với tôi: “Chắc tôi phải lo cho ông ấy đi ngay chứ không cứ như thế này thì lại vào tù thôi”. Thế là anh vượt biên một mình để chị lại tiếp tục trong cảnh đợi chờ. Vài năm sau thì Chị mất ở VN trong cảnh mòn mỏi đợi chờ (theo lời anh Kiên kể). Chị là người có một không hai. Người phụ nữ đáng kính ấy nay ở đâu!!!
Khi mới về SLL vào cuối năm 1963, tôi gặp anh Kiên, lúc ấy anh còn là Thiếu úy làm trưởng ban quân số Phòng HC SLL. Anh gốc Nhảy dù, còn tôi gốc Bộ binh thuộc Trung đoàn 46 BB từ Hâu Nghiã thuyên chuyển về. Mẵc dù dã bị thương vài lần trưóc khi về SLL, tôi vẫn thấy mặc cảm và phục mấy ông mũ đỏ sát đất nên luôn lễ phép với với anh, một điều thưa thiếu úy, hai điều thưa thiếu úy. Tôi đã bỏ lối xưng hô lễ phép này với anh sau một lần anh chửi tôi: “Thiếu úy cái con C…, tao muốn từ nay mày bỏ cái lối ấy đi.”
Dù rằng sau đó chúng tôi mày tao chi tớ theo ý muốn của anh nhưng tôi vẫn luôn kính trọng anh vì anh hơn tôi cả chục tuổi. Anh luôn đối xử với tôi như anh là một đàn anh chính hiệu. Bất cứ cái gì tôi nhờ anh, anh đều giúp đỡ tận tình giọng điệu luôn kẻ cả che trở của người lớn. Tôi nhớ sau khi về SLL được vài tuần nhưng tôi vẫn chưa thấy Tống Hồ Huấn, người cùng danh sách được thuyên chuyển với tôi từ Trung đoàn 46 BB về SLL đáo nhậm đơn vị, tôi đến hỏi anh. Anh nói ngay: “ Cậu đừng lo, tao chỉ gởi một công điện là tuần sau nó về đây ngay”, và anh cho tôi xem công điện anh thảo. Trong đó có một câu cuối mà tôi nhớ rất rõ: “Mọi sự chậm trễ, đơn vị trưởng hoàn toàn chịu trách nhiệm”. Và đúng như anh nói, khoảng tuần sau đó thì Tống Hồ Huấn về trình diện.
Có lần anh tâm sự với tôi về gia đình. Anh nói: “Bây giờ tao chỉ có vợ con thôi. Vợ tao là do tao một mình tự lo từ cơi trầu đám hỏi cho đến lúc cưới, một mình lo cho mình”. Anh rất thương vợ con và mọi sự chỉ cho vợ con. Anh không hề trai gái đàng điếm ăn chơi la cà hàng quán.
Năm 1968 khi tôi được gọi tái ngũ thì đúng vào dịp anh bị đổi đi khỏi SLL ra Quân Ðoàn 1. Hôm anh đi, tình cờ tôi cũng đi phép về Ðà Nẵng thăm gia đình, và tôi đã đưa anh đến tạm trú ở nhà Chị ruột tôi taị Cư xá Thống Nhất Ðà Nẵng trước khi anh đáo nhậm đơn vị mới. Tuy thế chỉ một thời gian ngắn sau tôi lại gặp anh ở Sài Gòn. Anh tình nguyện về Nha Kỹ Thuật để vào các toán ra Bắc cùng một thời điểm với nhóm anh Nguyễn Hữu Luyện.
Năm 1984 sang đến Pulau Bidong thì tôi nghe tin anh Kiên vừa chuyển về Sungai Besi ít lâu. Không ngờ cứ như đuổi ma, khi tôi sang đến đấy thì anh đã đi, và rồi mãi đến những năm cuối của Thiên niên kỷ cũ tôi mới gặp lại anh ở Los Angeles. Hôm ấy Lê Minh đón anh rồi đưa anh về China Town Los Angeles. Chúng tôi rủ anh đi ăn ở Phở Hòa China Town. Ăn xong, tôi đi long vòng với anh, chúng tôi ghé vào một tiệm bán báo và lịch. Thấy anh mân mê cuốn Penthouses của Hồng Kông, tôi liền mua tặng anh một cuốn. Anh cười hô hố, giọng oang oang đầy tiềm lực. Mặc dù lúc đó trông anh đã rất già, tôi vẫn có cảm nghĩ là anh sẽ sống đến cả trăm tuổi chứ không ít.
Năm NKT tổ chức giỗ cho các Chiến Hữu ở vùng Las Vegas, vì bận công việc tôi không tham dự được, anh Kiên đã gọi ngay cho tôi khi trở về và kể cho tôi chuyện đụng đầu với “ông bạn BKQ cũ ở Long Thành ” Hoàng Phong Linh. Tôi biết tính anh nên chỉ nghe và cười chứ không dám có ý kiến gì.
Anh Kiên tính nóng nhưng rất trực tính. Anh là ngưòi chưa hề biết sợ là gì. Anh rất tốt bụng, nếu đã giúp đỡ ai cái gì là anh giúp tận tình. Ði với anh nhiều khi tôi có cảm tưởng là nếu ai đụng đến tôi chắc phải khốn đốn với anh. Nhớ anh những ngày ở SLL, nhất là những đêm anh trực nhật, và ở Long Thành với những ca trực gác tuần tiễu ban đêm. Nhớ anh những lần anh bắn lủng cả trần CLB ở SLL khi anh từ Long Thành về.
Tuy không chắc chắn về tuổi của anh nhưng tôi nghĩ anh đang ở tuổi 8 bó. Nay ngồi đây viết về vài kỷ niệm với anh, lòng thấy bùi ngùi thương anh Kiên, thương Chị Kiên, thương các con cháu anh Kiên. Họ là những người VN với hai vai mang nặng những thảm họa trong cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại Cộng Sản.
Xin nghiêng mình trước vong hồn Anh Kiên và Chị Kiên khu Ông Tạ.
Xin chia buồn với Chị Kiên Mới và tang quyến.
Trần Trung Ginh và Gia đình


Doi loi ve su can truong va hy sinh cua anh Kien!
Bang hoang khi nghe tin anh Kien gia tu ban be ra di,qua bat ngo,toi duoc biet anh Kien trong suot thoi gian huan luyen tai Long Thanh cung nhu nhung cuoc hanh quan thuc tap tai DaLat, sau do lai tham du cuoc hanh trinh cua anh di vao long dat dich,vao dem thang 9/21/1967 trong chuyen bay dem tren phi co C130, ngoai phi hanh doan toan nguoi My ,toi la nguoi VN duy nhat tren chuyen bay, phi vu that vat va nguy hiem vi phai dung ky thuat bay tranh tam hoa tien cua dich, toi rat suy tu ve su hy sinh cua anh, voi cap bac D/U va tuoi doi cua anh, le ra anh khong can phai chap nhan su hy sinh nhu vay, tuy nhien anh van chap nhan ra di, toi dam nhiem cua mot Jump Master tren phi co, co nhiem vu mac do trang bi deo du, de chuan bi san sang cho cuoc hanh quan nhay du vao long dat dich tren vung troi Bac Viet, neu ke het ve chuyen bay dinh menh do thi rat dai, tuy nhien do la lan chot toi cam nhan duoc su hy sinh vo bo ben cua anh,
Hom nay nhan duoc tin anh da vinh vien ra, toi xin thap nen huong long tuong nho den anh , cau nguyen anh duoc vien man
Tuu Nguyen Denver Colorado